Tổng hợp truyện teen hay cực hay.Bên dưới là Truyện Khoa Học Viễn Tưởng Đảo Bác Sỹ Moreau full hay. Đọc truyện teen , tiểu thuyết hay trên di động.
Tôi cho rằng Moreau đảo chủ chính là Moreau bác sỹ ngày xưa. Bằng chứng rõ ràng rồi còn gì. Giờ tôi đã hiểu tại sao Montgomery lại đem con báo và các loài thú khác về đảo. Và tôi cũng nhận ra rồi: Cái mùi thoang thoảng tôi ngửi thấy từ lúc bước vào phòng chính là mùi thuốc khử trùng ở các phòng giải phẫu. Tôi chợt nghe, từ phía bên kia tường, tiếng con báo gầm lên, rồi tiếng chó kêu ăng ẳng như đang bị đánh.
Tuy nhiên, nói cho cùng, trong giới khoa học thì việc mổ xẻ động vật cũng chẳng phải ghê gớm lắm, có gì mà đảo chủ lại phải giữ bí mật đến vậy? Tôi lại miên man nghĩ đến cái tai nhọn và cặp mắt rực lửa của gã gia nhân. Hết chuyện này đến chuyện nọ rượt đuổi lẫn nhau trong trí, khi tôi ngồi nhìn ra mặt biển xanh tung sóng trong gió.
Thế là nghĩa gì? 1 căn nhà khóa kín trên 1 hòn đảo hoang vu, 1 tay bác sỹ khét tiếng chuyên mổ xẻ động vật, và 1 lũ người què quặt, dị hình?
(Bạn đang đọc truyện tại VipTruyen.Pro chúc các bạn vui vẻ)
Khoảng 1 giờ, Montgomery bước vào, cắt đứt dòng suy tưởng của tôi. Gã gia nhân theo sau, bưng 1 khay đựng bánh mỳ, ít rau, và vài món ăn khác. Có cả ve rượu, bình nước, 3 cái ly, và dao nĩa. Tôi ngờ vực nhìn gã, cặp mắt hiếu động của gã cũng nhòm tôi. Montgomery bảo hắn sẽ dùng bữa trưa cùng tôi, còn Moreau bận quá, chưa ăn được.
“Moreau!” Tôi thốt lên “Tôi biết ông ấy là ai!”
“Mẹ, dĩ nhiên phải biết rồi!”, hắn nói “Tôi hơi bị ngu, lẽ ra không nên nhắc đến tên ổng. Thôi, giờ anh biết ổng là ai, chắc anh cũng đã hiểu phần nào những bí mật ở đây. Rượu nhé?”
“Cám ơn, tôi không uống rượu bao giờ.”
“Ước gì tôi cũng thế. Bây giờ nghiện rồi, còn cai gì được. Vào cái đêm mù sương đó, chính vì cái thức uống chết tiệt này mà bây giờ tôi mới phải ở đây. Vậy mà hồi ấy, tôi còn cho rằng mình may mắn khi được thầy Moreau cứu và cho đi theo. Thật lạ…”
“Montgomery” tôi ngắt lời, khi gã gia nhân vừa đi ra và khép cửa lại “Tại sao tai thằng ấy lại nhọn hoắt thế?”
“Má nó” hắn văng tục, miệng nhồm nhoàm đầy thức ăn. Nhìn tôi 1 lúc, hắn hỏi lại “Tai nhọn hả?”
“Nhọn”, tôi nín thở, ráng nói cho thật điềm tĩnh “có cả lông dày nữa.”
Hắn chậm rãi chiêu vài ngụm nước, rồi rượu.
“Lông bao phủ tai nó. Tôi thấy rõ lúc nó đem cà phê tới hồi sáng. Mắt nó thì sáng rực trong đêm.”
Lúc này, Montgomery đã lấy lại sự bình tĩnh “Nó lúc nào cũng che tai, trước giờ tôi cũng nghĩ tai nó có điều gì lạ. Cụ thể thì cái tai trông như thế nào hả?”
Nhìn cử chỉ Montgomery cũng nhận ra ngay hắn chỉ giả vờ ngây ngô. Nhưng chẳng lẽ lại bảo vào mặt hắn là hắn đang nói dối. “Tai nhọn hoắt”, tôi nói “nhỏ và đầy lông. Nhưng chả cứ gì tai, cả người nó cái gì cũng lạ. Tôi chưa từng thấy ai lạ vậy.”
1 tiếng rống đầy đau đớn bỗng vang lên đằng sau chúng tôi. Xét về độ sâu và âm lượng, tiếng rống hẳn là của con báo. Montgomery hơi rúm người.
“Thế sao?” hắn nói.
“Anh kiếm đâu ra gã gia nhân ấy?”
“Ở San Francisco. Tôi phải nhận là nó xấu. Và ngu nữa. Cũng không còn nhớ rõ làm sao mà gặp nó. Nhưng ở lâu với nhau, tôi quen nó rồi. Nó cũng quen tôi. Anh thấy nó thế nào?”
“Bất thường. Có cái gì ở nó…Đừng cho là tôi hay tưởng tượng…nhưng mỗi khi nó đến gần, tôi lại thấy có cảm giác sợ, người cứng cả lại. Như là ma quái ấy.”
“Kỳ nhỉ!”, Montgomery ngừng ăn “Tôi có thấy gì đâu. Nhưng chắc tụi ở trên tàu cũng như anh, nên tụi nó làm tội thằng quỷ ghê quá. Còn nhớ thái độ thằng thuyền trưởng chứ?”
Con báo lại rống lên, lần này nghe có vẻ đau đớn hơn nữa. Montgomery chửi thề, còn tôi đang định hỏi hắn về lũ thuyền nhân thì phải dừng lại. Sau tiếng rống dài là 1 chuỗi những cơn rên ngắn, dồn dập.
“Còn những đứa ở trên thuyền và bãi biển?” Tôi hỏi “Chúng thuộc chủng người nào?”
“À, chúng giỏi đấy chứ, phải không?”. Hắn lơ đãng trả lời. Con báo thì tiếp tục rên.
Tôi không hỏi nữa. Con báo càng rên nghe càng ghê. Montgmery nhìn tôi với cặp mắt xám lờ đờ, rồi lại uống rượu. Hắn chuyển đề tài sang nói về rượu, bảo rằng đã dùng rượu để cứu tôi. Hắn dường như ráng nhấn mạnh chuyện tôi nợ hắn 1 mạng. Tôi trả lời gióng một.
Giờ thì bữa ăn đã xong. Gã gia nhân tai nhọn vào dọn bàn rồi cùng Montgomery trở ra, để lại tôi 1 mình trong căn phòng vắng. Lúc ngồi ăn, tôi để ý Montgomery luôn phải cố gắng kiềm chế sự khó chịu khi nghe tiếng rên của con báo bị mổ sống. Thần kinh hắn không vững, hèn gì hắn thường tâm sự mình thèm có được tinh thần mạnh mẽ.
Bản thân tôi cũng khó chịu khi nghe tiếng rên. Càng về chiều, con báo càng rên dữ. Vừa vừa còn chịu được, mãi thì phát khùng mất. Tôi quẳng sang bên cuốn sách của Horace (1) đang đọc, tay nắm lại, môi cắn vào nhau, đi đi lại lại khắp phòng. Lát sau, tôi phải lấy tay bịt tai.
Tiếng báo rên dần dần xé lòng tôi. Cuối cùng, nó thê thảm đến độ không thể nào chịu thấu. Tôi mở cửa, bước ra ngoài, giữa cái nóng oi bức của buổi chiều muộn. Nhưng ở ngoài này còn nghe tiếng rên rõ hơn. Tưởng như mọi đau khổ nhân gian đều hội tụ vào trong tiếng rên con báo. Giá thử tôi biết có nỗi đớn đau nơi phòng trong, nhưng không nghe âm thanh gì, thì chắc tôi cũng không mấy quan tâm. Chỉ khi đớn đau phát tiết ra âm thanh, nó mới khiến người lạnh sống lưng, và khiến lòng ta tan nát. Trời đẹp lắm, nắng đang vàng, và những tàn cây xanh đang đong đưa theo gió biển, nhưng khi còn nghe tiếng rên, thì thế giới quanh tôi còn là 1 mớ hỗn độn, đầy những hồn ma bóng quế lượn lờ.
Horace (65 TCN – 8 TCN): thi hào La Mã, sống dưới thời Julius Caesar và Augustus.
K
hông cần biết mình đang đi đâu, tôi sải bước qua những bụi cây trên cái gò sau nhà, qua luôn những cụm cây gỗ lớn. Chẳng mấy chốc, tôi đã tới bên kia gò, rồi đi xuống, men theo dòng suối nhỏ chảy qua 1 thung lũng hẹp. Tôi dừng lại và lắng nghe. Chắc tôi đã đi đủ xa, hoặc cây rừng dày đặc đã ngăn được âm thanh phát ra từ khu nhà. Không khí thật tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng xào xạc của lá rừng trên đất, khi 1 con thỏ xuất hiện và nhảy tưng tưng lên dốc. Tôi lưỡng lự chốc lát, rồi ngồi xuống dưới bóng râm của tàn cây.
Nơi này quả thanh bình. Cây cối sum suê bên bờ che đi hầu khuất dòng suối, chỉ để lộ ra 1 tam giác nước long lanh. Phía bờ kia, qua 1 màn sương khói xanh mờ, cây và dây leo chen chúc dưới trời quang thăm thẳm. Đây đó ẩn hiện những đốm đỏ trắng, báo hiệu mùa nở hoa của thực vật biểu sinh. Song cặp mắt mới thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên được vài phút, tâm trí tôi lại quay về nghĩ ngợi tới gã gia nhân của Montgomery. Trời nóng quá, nghĩ nhiều dễ gây buồn ngủ. Chẳng mấy chốc, tôi đã thiu thiu.
Ngủ quên đi không biết bao lâu, tôi bị đánh thức bởi tiếng cỏ cây sột soạt phía bờ kia con suối. Ban đầu cũng chẳng thấy gì lạ, chỉ là những ngọn sậy và dương xỉ đang phất phơ. Nhưng thình lình, 1 cái gì đó xuất hiện, nhìn không rõ là chi. Nó vục cái đầu tròn xuống suối, uống nước. Giờ tôi đã thấy rõ: Nó là người , nhưng lại bò 4 chân như con vật. Thằng người mặc đồ xanh nhạt, da màu đồng, tóc thì đen nhánh, miệng chum chúm mút nước chùn chụt. Xấu xí dường như là đặc tính của thổ dân đảo này thì phải.
Khi đang chồm tới trước để nhìn rõ hơn, tôi đụng phải 1 miếng nham thạch, khiến viên đá lăn xuống dốc. Thằng người ngẩng lên, vẻ tội lỗi, tôi và nó nhãn tuyến giao nhau. Nó vội vàng đứng thẳng trên 2 chân, lấy tay chùi mồm. Chân nó ngắn chỉ bằng nửa cái mình. Sau cả phút lặng yên đứng địa tôi, nó quay đi, ngoái lại nhìn vài lần, rồi lủi vào một bụi cây bên tay mặt. Tiếng sột soạt xa dần rồi tắt hẳn. Mãi sau khi nó đi khuất, tôi vẫn ngồi dõi theo. Trong rừng hóa ra cũng chẳng thanh bình.
Lại có tiếng động gì đấy ở đằng sau, lần này chỉ là con thỏ. Tôi đứng dậy, nhìn quanh đầy cảnh giác, cảm thấy hơi bất an khi không tấc sắt trong tay làm vũ khí. Sự xuất hiện của cái tên nửa người nửa thú kia bất giác phá hỏng khung cảnh tĩnh lặng chiều tà. Nhưng rồi tôi nhớ lại là thằng người cũng mặc áo quần, chứ không trần như nhộng. Như thế có nghĩa, tôi tự trấn an mình, nó không đến nỗi dã man. Có khi nó còn hiền nữa là khác, chỉ trông mặt mà bắt hình dong thì dễ lầm.
Tuy trấn an như vậy, nhưng vẫn không thể yên tâm được. Tôi đi về phía tả, dọc theo con dốc, đầu cứ quay ngang quay ngửa, đề phòng. Giống người nào mà đi bằng cả tứ chi, và thay vì uống, lại mút nước chùn chụt? Chợt 1 tiếng rống vọng lại. Ngỡ là tiếng con báo, tôi vội bước tránh sang hướng khác. Hướng này lại dẫn về dòng suối. Tôi băng qua suối, và cứ thế đi mãi giữa những bụi cây.
Tôi giật mình khi thấy trên khoảng đất trước mặt những mảng màu đỏ tươi. Lại gần mới rõ đấy là 1 loại nấm lạ, phân nhánh và có nếp như địa y, nhưng khi chạm vào sẽ tan ngay ra chất nhớt. Bên cạnh đó, dưới bóng những cây dương xỉ lớn, có những vết máu thật: 1 xác thỏ không đầu còn âm ấm đang nằm, ruồi nhặng bu đầy. Thế là trong lũ thỏ mới đến hôm nay, ít nhất 1 con đã đi đời. Có vẻ như con thỏ bất ngờ bị tóm và cắn cổ, nhưng mà ai làm? Cái ý tưởng mơ hồ hình thành trong đầu từ khi thấy tên nửa người nửa thú bên bờ suối nay lại hiện ra rõ ràng trong tôi. Tôi chợt nhận ra mình quá liều khi dám lang thang nơi đây. Nỗi sợ làm tôi bắt đầu tưởng tượng đủ điều. Mỗi bóng cây giờ đây không chỉ là bóng cây, mà còn là 1 ổ phục kích, mỗi tiếng xào xạc của lá là 1 đe dọa. Khắp quanh tôi đầy những kẻ thù vô hình.Trở ngược lại, tôi chạy băng băng như rồ qua rừng cây: Đành phải trở về khu nhà trên bãi biển thôi.
Tôi dừng chân khi trước mặt hiện ra 1 bãi đất trống. Bãi này giống như cái trảng nhỏ ở giữa rừng. 3 bóng người đang ngồi chồm chỗm trên 1 thân cây đổ: 1 đàn bà, 2 đàn ông. Cả 3 gần như trần truồng, trên người chỉ đóng độc cái khố bằng vải đỏ. Da chúng nâu hồng rất lạ, mặt béo ị, trán hõm, cằm lẹm, trên đầu chỉ lưa thưa vài cọng tóc rễ tre.
Chúng ngồi nói chuyện với nhau, đầu và vai cứ quay quầy quậy. Đúng hơn là 1 đứa nói, 2 đứa nghe, chăm chú đến nỗi không phát hiện ra tôi. Giọng đứa đang nói nặng và lè nhè, tôi tuy nghe được mà không hiểu gì sất. Có vẻ nó đang tụng niệm cái gì đó. Hốt nhiên, nó đổi giọng the thé, đứng thẳng lên, giang 2 tay ra. 2 đứa kia cũng đứng lên giang tay và lảm nhảm theo. Chúng vừa tụng niệm vừa nhún nhảy theo nhịp. Cũng như các thổ dân khác trên đảo, chân chúng gầy ngắn, di chuyển rất vụng về. 1 lát sau thì chúng đổi kiểu, nhảy theo vòng tròn, chân giậm, tay vẫy, miệng cứ bi bô cái điệp khúc nghe như “Aloola” hay “Baloola”. Mắt chúng sáng lên, mặt bừng bừng vẻ sảng khoái, nước dãi chảy xuống thành dòng.
Ngồi xem điệu vũ lạ lùng của chúng, tôi chợt nhận ra 1 đặc điểm chung của lũ thổ dân đảo này: Chúng mang hình dạng con người đấy, nhưng mỗi tên có những đặc tính riêng biệt y chang 1 số loài vật quen thuộc: Tên giống chó, tên giống ngựa, vv…Như 3 đứa đang cử hành cái nghi lễ kỳ quặc kia, dù có bề ngoài rất người, dù đóng khố đàng hoàng, nhưng nhìn vào cử chỉ, dáng điệu, cũng như nét mặt của chúng, có cái gì giông giống loài heo. Thật vậy, chúng rõ ràng mang nét heo, không nhầm đi đâu được.
Khi tôi còn đang nghĩ ngợi, bọn người-heo bắt đầu reo hò rồi nhảy tưng tưng lên không. Thế rồi 1 đứa vấp, nhưng nó không ngã, mà trụ lại được trên đất bằng cả tứ chi, và lại đứng lên. Đã quá rõ! Đó là gì nếu không phải bản năng của loài thú vật?
Tôi gượng nhẹ quay lui, cố tránh không gây tiếng động để khỏi bị phát giác. Đi được 1 quãng xa, mới bạo dạn hơn và thôi rón rén. Sợ muốn xỉu, đầu tôi giờ chỉ có 1 ý nghĩ duy nhất: Phải trốn càng xa lũ người quái đản càng tốt. Nhưng muốn trốn có phải dễ đâu. Gần như ngay lập tức, tôi thấy thấp thoáng trong lùm cây đằng xa 1 cặp chân ngắn. Rõ ràng có kẻ nào đó đang chạy song song với tôi, nhưng chân bước êm ru, không phát âm thanh. Tôi dừng lại, dò xét động tĩnh. Cặp chân cũng dừng. Cố nhìn qua các tán lá, tôi thấy thấp thoáng phần thân trên của kẻ đang theo mình: Chính là tên lúc nãy uống nước bên bờ suối. Nó nghiêng đầu nhìn tôi, mắt rực lên tia sáng xanh lục, rồi lủi vào mấy bụi cây đằng sau. Không thấy bóng dáng nữa, nhưng tôi chắc nó vẫn đang đứng đâu đó quan sát mình.
Nó là cái giống gì – người hay thú? Nó muốn làm gì mình đây? Bây giờ vũ khí không có, cả 1 cái gậy đánh chó cũng không. Chẳng lẽ lại bỏ chạy? Nãy giờ nó không dám tấn công mình, hẳn vì nó còn e dè. Nếu bỏ chạy nó sẽ biết ngay mình sợ nó. Lúc đấy thì khốn nạn cái thân!
Tôi cố nén nỗi ớn lạnh, nghiến răng làm gan, đi xăm xăm về phía thằng người. Lách qua mấy bụi cây hoa trắng, tôi thấy nó đang đứng cách mình chừng 2 chục bước chân, vẻ mặt hơi do dự. Tôi tiến tới, nhìn thẳng vào mắt nó.
“Mày là thằng nào?” Tôi hỏi.
Nó kêu lên “Không!”, rồi quay người bỏ chạy. Nhưng mới chạy vài bước, nó dừng để ngó tôi. Dưới ánh hoàng hôn, mắt nó lại sáng rực. Hòn thót lên tận cổ rồi, song đâm lao phải theo lao, muốn sống chỉ còn cách giả đò bặm trợn. Tôi lại tiếp tục tiến lên. Nó lại lùi, và lần này chạy mất tăm.
Tôi chợt nhận ra: Càng về tối, nguy hiểm càng gần. Mặt trời đã lặn vài phút trước, chút ánh dương tàn le lói bên trời đông cũng sắp tắt tới nơi. Bướm đêm bắt đầu xuất hiện, 1 con đang vỗ cánh ngay sát đầu tôi. Nếu không muốn qua đêm trong khu rừng bí ẩn đầy bất trắc này, phải cho thật lẹ tìm đường về khu nhà bác sỹ Moreau. Về cái nhà u ám đầy tiếng rên la ấy cũng chẳng dễ chịu gì, nhưng vẫn hơn ở lại làm mồi cho đêm tối, hay đúng hơn là cho những thứ ghê rợn đang ẩn núp trong đêm. Tôi nhìn lần cuối xem còn thấy bóng dáng thằng người không, rồi mò mẫm cố tìm đường cũ trở về con suối.
Tâm trạng rối bời bời, tôi bước vào 1 khu đất lạ bằng phẳng, lác đác bóng cây. Mộ dương đã tàn, vạn vật chìm vào màn tối. Trời xanh như sâu hơn, khi các vì sao dần dần hiện ra. Không gian rừng vốn xanh bóng cây, nay về đêm bỗng nhuộm sắc đen huyền bí. Ngoại trừ mấy cây cao in bóng trên nền trời, cả khu rừng giờ đây chỉ còn là 1 khối vô dạng thể thê lương.
Tôi vẫn đi mãi. Cây cao ngày càng thưa, chỉ còn toàn cây nhỏ. Rồi đến 1 bãi cát trắng hoang vu, theo sau bởi rừng cây bụi. Lạc mất rồi, lúc chiều có đi ngang bãi cát nào đâu. Bên tay mặt chợt có tiếng xạc xào. Ban đầu tôi còn tưởng nghe nhầm, nhưng sau rõ ràng: Hễ tôi đi thì có tiếng chuyển động theo, mà tôi dừng thì tiếng ấy cũng dừng.