Truyện Thời Xa Vắng
Mr.Luân™ [Admin] [On] 30/11/24 - 19:13 |
Thời xa vắng
Tác giả: Lê LựuLàng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ siết mãi sợi dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy. Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thoáng tái tê cám cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này" thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: "Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói với người ta". Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt lên khi có người hỏi: "Cu Sài, vợ mày đâu". Hơn một năm nay sự có mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và "Anh ấy lại bảo bố con như lão hàng tre thầy mẹ ợ". Nỗi ẫm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ, dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó "con bé ấy" đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó "con bé ấy" giã đôi cũng dẻo và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi khi có tiếng gọi "Đâu về mà gạt ngô", cu Sài lẳng lặng đi vào đặt quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi vào chiếc chổi lúa, , mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng cối. Khi ấy ngô đã dập đôi,, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng "thịch". Ngô nục, "nó" dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy oà đi như con gà, con ngan vừa bị nhốt ra khỏi lồng
Chương 1
Chương 1
Làng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ siết mãi sợi dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy. Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thoáng tái tê cám cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này" thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: "Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói với người ta". Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt lên khi có người hỏi: "Cu Sài, vợ mày đâu". Hơn một năm nay sự có mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và "Anh ấy lại bảo bố con như lão hàng tre thầy mẹ ợ". Nỗi ẫm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ, dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó "con bé ấy" đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó "con bé ấy" giã đôi cũng dẻo và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi khi có tiếng gọi "Đâu về mà gạt ngô", cu Sài lẳng lặng đi vào đặt quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi vào chiếc chổi lúa, , mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng cối. Khi ấy ngô đã dập đôi,, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng "thịch". Ngô nục, "nó" dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy oà đi như con gà, con ngan vừa bị nhốt ra khỏi lồng.
Trưa nay không hiểu vì sao con bé lại giã trẹo vào tay thằng Sài. Sài hoảng hốt kêu "ối" một tiếng bao nhiêu nỗi ẫm ức vốn tích tụ sẵn, nó vừa thu cái tay đau vào bụng vừa vung tay lành thụi vào mặt "vợ" nó . Con bé không lùi, không giơ tay đỡ, cứ đứng trân trân hứng chịu những câu xỉ vả của thằng Sài. Một lúc sau cái tay đã dịu đi, nỗi ấm ức cũng đã hả, và thằng Sài thấy mệt bã bời, nó rấn lên nhưng không đánh mà nói câu đầy oai vệ để rút cửa cho đỡ ngượng "Bố mày đến đây cũng đếch sợ, ông huých cho chó nó cắn lồi mắt bố mày ra". Thằng Sài không ngờ cái câu nói đó lại làm ông đồ Khang bố nó đau đớn uất giận đến thế. Khoảng xế trưa ông mới bán xong mấy cây tre từ quán hàng Táo trở về. Như mọi bữa, ông vẫn thấy Tuyết, con dâu ông lọc vôi, bắc nồi rồi tiếng đũa cả đánh bột nghe quàm quạp như đã nhìn thấy nồi bánh đúc ngô vàng ngậy quánh dẻo ở trước mặt. Lệ thường sau những tiếng hối hả ấy, nó rụi lửa, gon miệng nồi, úp vung lại và tiếng lách cách của bát đũa đặt ở mâm. Thấy ắng lặng hẳn đi, ông đã định hút xong điếu thuốc lào đứng dậy gọi thằng Sài về và ngầm ý nhắc nhở con dâu dọn cơm quàng lên, ông đói muốn lả đi rồi. Năm hết, tết đến, mỗi ngày giữ được một bữa bánh đúc ngô thế này đã khó. Trưa qua có khách ông phải nhường bát, sáng nay lại thay bà ấy vác mấy đoạn tre đi chợ, trở về, hai chân đã run run. Vừa nhả hơi thuốc ông vừa quay ra cửa thấy con dâu ông giàn giụa nước mắt, cắp gói quần áo mếu máo "Con xin thầy mẹ con về nhà con". Con bé kể rành rọt và khúc triết sự tình xảy ra. Càng nghe, mặt ông càng tối rầm lại. "Thôi thầy xin con, con cứ ở nhà" . Nhưng con bé nhất quyết ra đi, đi một cách bình thản, tự tin và bất chấp lời can gọi vừa tha thiết vừa có phần gắt xẵng của ông.
Thằng Sài được người mách bảo, che chắn ông đồ Khang không tìm thấy nó. Ông gọi tất cả con dâu, con giai kể cả anh Tính là cán bộ của phòng thuế nông nghiệp huyện học ba tháng trên tỉnh vừa dắt chiếc xe đạp vê, ông đã bắt vứt đi từng nhà tìm thằng Sài. "Không có con thì đừng" - "Ai thấy nó đầu làm ơn mách tôi. Thằng này mà sống, cả nhà tôi chết đứng vì nó".
Bằng cách nào đó thằng Sài nghe thấy tất cả lời lẽ có khi còn nghiêm trọng hơn sự uất hận của ông đồ. Trời chạng vạng tối nó vuột ra cánh đồng. Nhờ sương hôm xuống dày đặc, chỉ chạy cách rặng tre chừng dăm chục bước đã thấy mờ mịt, nhưng tiếng ồn ào phía trong vẫn vọng lên, muốn oà toá theo. Có lẽ ai trông thấy nó ư? Nó chạy sấp ngửa trên những thửa ruộng mới cày vỡ, những sá cày đất gan trâu lật lên như những cánh phản rắn bóng nhếnh nháng. Chốc chốc vấp ngã, mặt nó đập vào đá, đau đến nỗi chỉ thấy nước mắt ứa ra mà không sao dậy nổi. Nó nằm úp mặt vào đất, nước mắt thấm xuống làm tảng đất cầy nhão ra, da mặt nó cứng lại, dính ập vào hòn đất mới cầy vỡ. Nhưng rồi nó vẫn phải cố bò dậy lấy sức chạy, vừa thở vừa chạy, vừa nghiến răng nén đau mỗi lần vấp ngã. Mãi đến khi không thể đứng dậy được và có lẽ đã xa lắm rồi, không ai còn đuổi được, nó mới nằm lại chỗ đống cỏ gà, cỏ gấu nhà ai đốt dở từ hôm nào, không còn lửa nhưng tro vẫn âm ấm. Nó lấy tay san đống tro lựa chỗ nằm và vơ những vầng cỏ chưa cháy đắp lên đầu, lên lưng để không ai nhìn thấy. Nằm chưa ấm chỗ lại nghe lao xao, tiếng gào kêu tên thằng Sài hoảng hốt. Có cả tiếng anh Tính và chú Hà. Vẫn gần nhà quá. Nhưgn nó mệt muốn đứt hơi, không còn ngồi dậy được nữa. Nằng nghe tiếng gọi của chú và anh, nó vừa mừng vừa thấy tủi thân, nước mắt ứa ra và mồ hôi cũng ướt đầm chiếc áo cánh vải phin gụ. mọt thoáng sau nó lại thấy run, khắp người run bắn lên, nó vội vã cào cỏ, cào tro, cào đất gạt lên người, chỗ nào con hở lạnh phải kéo cả tảng đất cày đắp lên, nó nằm cong như một con sâu đo nằm nghiêng, thiếp đi trong nỗi hoảng sợ và đói mệt từ lúc nào không thể biết.
Cái điều nó phấp phỏng chờ đợi đã không xảy ra. Anh Tính đã về và chú Hà cũng đi tìm nó. Ôi, chú Hà! Nghe nói hồi cưới Sài, chú Hà không lên vì chú không bằng lòng cho trẻ con lấy vợ. Hôm nay có chú, có nghĩa là tội lỗi của Sài được che chở. Chỉ cần thấy chú không vui, cả nhà cả xóm sẽ oà toá ra cánh đồng kêu la tìm kiếm. Người ta sẽ reo lên ngỡ ngàng khi tìm ra nó và bế nó về xuýt xoa và mắng mỏ, sai khiến và giục giã nhau thay quần áo, lấy khăn ướt lau mặt, dỗ dành chiều chuộng nó. Lúc ấy nó đã khoẻ hẳn rồi, đã muốn nhỏm dậy làm lấy mọi việc nhưng mắt vẫn phải hơi nhắm lại, miệng há ra thở, đôi môi khô lại, hcana tay vẫn mềm oặt thõng thượi theo những bàn tay nâng niu nắn bóp và vẫn phải thều thào đáp lại ú ớ những câu gọi hỏi của mọi người. Cái phút thấp thoáng nghe tiếng của anh, của chú, nó đã mừng đến ứa nước mắt, đã tủi thân giận dỗi đến run lên.
Chính lúc ấy chú Hà hỏi, cái lời lạnh như đêm sương muối:
- Ai như anh Tính?
- Gì đấy? Ai hỏi gì.
- Tôi đây!
- A ông. Con tưởng ai. Con vừa mới về.
Đợi anh vội vã đến gần, đứng một đoạn tre cắm xuống đất và sẵn sàng hứng đỡ mọi lời, ông Hà mới nói, giọng nhỏ, đã cố ghìm nỗi bực.
- Anh vô ý thức lắm!
- Dạ chú bảo..
- Thằng Sài đuổi vợ nó đi, đấy là việc của thằng trẻ con. Bố anh đánh chửi thằng Sài, là việc của ông lão phong kiến hủ bại. Còn anh, anh là cán bộ, gia đình anh là gia đình cách mạng, nếu ngày mai, ngày kia cả làng, cả tổng đồn ầm ã rằng nhà anh Tính cán bộ huyện, cháu ông Hà bí thư chi bộ xã cãi nhau, đánh nhau ầm ĩ suốt đêm thì anh còn mặt mũi nào nữa không? Tôi cho anh lên công tác trên huyện cốt để anh có điều kiện học tập, được chỉnh huấn cho nó mở mang, không ngờ anh vẫn...
- Cháu vừa về đến nhà đã thấy...
- Thấy thế nào, anh cũng phải trị thằng em anh không được hỗn. Tý tuổi đầu đã mất đoàn kết với vợ con. Hỉ mũi chưa sạch đã lên mặt làm chồng đánh chửi con người ta. Đấy là t ôi chưa kể quyền nam nữ bình đẳng, nhà nó mà kiện là mất hết, cả tôi, cả anh đeo mo vào mặt. Đứng trước việc đó vai trò của anh, của người cán bộ hoạt động cách mạng để ở đâu? Lẽ ra, phải biết giải thích đường lối chính sách cho bố mẹ anh thấm nhuần. Còn thằng Sài phải cho nó vài cái bạt tai.
- Vâng.
- Nhưng có đánh nó thì cũng phải kín, kẻo người ta lại bảo cán bộ không gương mẫu.
- Vâng.
- Nhưng mà... chủ yếu là đe nẹt rồi báo cho thầy giáo và phụ trách kiểm điểm ở lớp, ở đội, đừng làm gì ầm ĩ lên.
Nói được đến đâu nỗi giận của chú hả vợi đến đấy. Tính không ngờ vì thương em và vốn không ưa gì cái lề lối gia giáo của bố, anh đã hoảng hốt đi tìm nó. Thấy anh hoảng, vợ anh cũng hoảng, mấy bà thím dù thực lòng không để tâm lắm cũng giục giã con cái đi tìm anh Sài làm ồn ã cả một góc xóm. Cái việc nhỏ ấy đã biểu hiện ý thức non nớt của anh, anh đã để chú Hà cho rằng mấy tháng nay tuy đi học trên tỉnh nhưng anh vẫn chưa hề có tiến bộ gì.
Anh lững thững đi về nhà, ngồi vào chiếc tràng kỉ âm thầm như một bóng ma. Mãi mới ngẩng lên anh quát xuống bếp:
- Đi đằng nào, có châm hộ cái đèn không? Nhà cửa mù mịt lạnh lẽo như nghĩa địa mà vẫn để được, tôi lạ thật.
Anh quát vợ. Không ngờ, nói vừa dứt đã thấy một ngọn lửa xoè lên ở tràng kỷ bên kia. Bố đã ngồi lặng lẽ ở đấy khi nào. Ông lật bật nhắc bóng đèn dầu, đặt ngang chiếc đóm tre ngâm đang cháy, gạt gạt ống muỗng cho tàn than trên đầu bấc rời ra, kéo chiếc đóm lùi lại để ngọn lửa chèm lên đầuu muỗng và khi ngòi bấc nhú lên, bắt được ngọn lửa, ông chụp chiếc bóng ngay ngắn rồi mới dụi đóm vào khe chiếc điếu bát. Tất cả cử động ấy của ông của ông diễn ra một cách rụt rè và chậm, dường như nó là cái cớ để ông nghĩ ra một điều gì đó, sẽ nói một lời nào đó với thằng con ông. Vợ chồng ông có tám mặt con nhưng chỉ còn ba. Ba thằng con trai. Thằng cả thì đần và đã ở chỗ khác, cả nó, cả ông đều thấy yên phận kẻ làm con và người làm cha, không thấy phiền muộn trói buộc gì nhau. Thằng thứ hai, anh Tính - ông vẫn quen gọi một cá
Tác giả: Lê LựuLàng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ siết mãi sợi dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy. Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thoáng tái tê cám cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này" thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: "Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói với người ta". Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt lên khi có người hỏi: "Cu Sài, vợ mày đâu". Hơn một năm nay sự có mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và "Anh ấy lại bảo bố con như lão hàng tre thầy mẹ ợ". Nỗi ẫm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ, dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó "con bé ấy" đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó "con bé ấy" giã đôi cũng dẻo và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi khi có tiếng gọi "Đâu về mà gạt ngô", cu Sài lẳng lặng đi vào đặt quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi vào chiếc chổi lúa, , mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng cối. Khi ấy ngô đã dập đôi,, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng "thịch". Ngô nục, "nó" dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy oà đi như con gà, con ngan vừa bị nhốt ra khỏi lồng
Chương 1
Chương 1
Làng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ siết mãi sợi dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy. Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thoáng tái tê cám cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này" thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: "Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói với người ta". Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt lên khi có người hỏi: "Cu Sài, vợ mày đâu". Hơn một năm nay sự có mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và "Anh ấy lại bảo bố con như lão hàng tre thầy mẹ ợ". Nỗi ẫm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ, dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó "con bé ấy" đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó "con bé ấy" giã đôi cũng dẻo và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi khi có tiếng gọi "Đâu về mà gạt ngô", cu Sài lẳng lặng đi vào đặt quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi vào chiếc chổi lúa, , mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng cối. Khi ấy ngô đã dập đôi,, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng "thịch". Ngô nục, "nó" dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy oà đi như con gà, con ngan vừa bị nhốt ra khỏi lồng.
Trưa nay không hiểu vì sao con bé lại giã trẹo vào tay thằng Sài. Sài hoảng hốt kêu "ối" một tiếng bao nhiêu nỗi ẫm ức vốn tích tụ sẵn, nó vừa thu cái tay đau vào bụng vừa vung tay lành thụi vào mặt "vợ" nó . Con bé không lùi, không giơ tay đỡ, cứ đứng trân trân hứng chịu những câu xỉ vả của thằng Sài. Một lúc sau cái tay đã dịu đi, nỗi ấm ức cũng đã hả, và thằng Sài thấy mệt bã bời, nó rấn lên nhưng không đánh mà nói câu đầy oai vệ để rút cửa cho đỡ ngượng "Bố mày đến đây cũng đếch sợ, ông huých cho chó nó cắn lồi mắt bố mày ra". Thằng Sài không ngờ cái câu nói đó lại làm ông đồ Khang bố nó đau đớn uất giận đến thế. Khoảng xế trưa ông mới bán xong mấy cây tre từ quán hàng Táo trở về. Như mọi bữa, ông vẫn thấy Tuyết, con dâu ông lọc vôi, bắc nồi rồi tiếng đũa cả đánh bột nghe quàm quạp như đã nhìn thấy nồi bánh đúc ngô vàng ngậy quánh dẻo ở trước mặt. Lệ thường sau những tiếng hối hả ấy, nó rụi lửa, gon miệng nồi, úp vung lại và tiếng lách cách của bát đũa đặt ở mâm. Thấy ắng lặng hẳn đi, ông đã định hút xong điếu thuốc lào đứng dậy gọi thằng Sài về và ngầm ý nhắc nhở con dâu dọn cơm quàng lên, ông đói muốn lả đi rồi. Năm hết, tết đến, mỗi ngày giữ được một bữa bánh đúc ngô thế này đã khó. Trưa qua có khách ông phải nhường bát, sáng nay lại thay bà ấy vác mấy đoạn tre đi chợ, trở về, hai chân đã run run. Vừa nhả hơi thuốc ông vừa quay ra cửa thấy con dâu ông giàn giụa nước mắt, cắp gói quần áo mếu máo "Con xin thầy mẹ con về nhà con". Con bé kể rành rọt và khúc triết sự tình xảy ra. Càng nghe, mặt ông càng tối rầm lại. "Thôi thầy xin con, con cứ ở nhà" . Nhưng con bé nhất quyết ra đi, đi một cách bình thản, tự tin và bất chấp lời can gọi vừa tha thiết vừa có phần gắt xẵng của ông.
Thằng Sài được người mách bảo, che chắn ông đồ Khang không tìm thấy nó. Ông gọi tất cả con dâu, con giai kể cả anh Tính là cán bộ của phòng thuế nông nghiệp huyện học ba tháng trên tỉnh vừa dắt chiếc xe đạp vê, ông đã bắt vứt đi từng nhà tìm thằng Sài. "Không có con thì đừng" - "Ai thấy nó đầu làm ơn mách tôi. Thằng này mà sống, cả nhà tôi chết đứng vì nó".
Bằng cách nào đó thằng Sài nghe thấy tất cả lời lẽ có khi còn nghiêm trọng hơn sự uất hận của ông đồ. Trời chạng vạng tối nó vuột ra cánh đồng. Nhờ sương hôm xuống dày đặc, chỉ chạy cách rặng tre chừng dăm chục bước đã thấy mờ mịt, nhưng tiếng ồn ào phía trong vẫn vọng lên, muốn oà toá theo. Có lẽ ai trông thấy nó ư? Nó chạy sấp ngửa trên những thửa ruộng mới cày vỡ, những sá cày đất gan trâu lật lên như những cánh phản rắn bóng nhếnh nháng. Chốc chốc vấp ngã, mặt nó đập vào đá, đau đến nỗi chỉ thấy nước mắt ứa ra mà không sao dậy nổi. Nó nằm úp mặt vào đất, nước mắt thấm xuống làm tảng đất cầy nhão ra, da mặt nó cứng lại, dính ập vào hòn đất mới cầy vỡ. Nhưng rồi nó vẫn phải cố bò dậy lấy sức chạy, vừa thở vừa chạy, vừa nghiến răng nén đau mỗi lần vấp ngã. Mãi đến khi không thể đứng dậy được và có lẽ đã xa lắm rồi, không ai còn đuổi được, nó mới nằm lại chỗ đống cỏ gà, cỏ gấu nhà ai đốt dở từ hôm nào, không còn lửa nhưng tro vẫn âm ấm. Nó lấy tay san đống tro lựa chỗ nằm và vơ những vầng cỏ chưa cháy đắp lên đầu, lên lưng để không ai nhìn thấy. Nằm chưa ấm chỗ lại nghe lao xao, tiếng gào kêu tên thằng Sài hoảng hốt. Có cả tiếng anh Tính và chú Hà. Vẫn gần nhà quá. Nhưgn nó mệt muốn đứt hơi, không còn ngồi dậy được nữa. Nằng nghe tiếng gọi của chú và anh, nó vừa mừng vừa thấy tủi thân, nước mắt ứa ra và mồ hôi cũng ướt đầm chiếc áo cánh vải phin gụ. mọt thoáng sau nó lại thấy run, khắp người run bắn lên, nó vội vã cào cỏ, cào tro, cào đất gạt lên người, chỗ nào con hở lạnh phải kéo cả tảng đất cày đắp lên, nó nằm cong như một con sâu đo nằm nghiêng, thiếp đi trong nỗi hoảng sợ và đói mệt từ lúc nào không thể biết.
Cái điều nó phấp phỏng chờ đợi đã không xảy ra. Anh Tính đã về và chú Hà cũng đi tìm nó. Ôi, chú Hà! Nghe nói hồi cưới Sài, chú Hà không lên vì chú không bằng lòng cho trẻ con lấy vợ. Hôm nay có chú, có nghĩa là tội lỗi của Sài được che chở. Chỉ cần thấy chú không vui, cả nhà cả xóm sẽ oà toá ra cánh đồng kêu la tìm kiếm. Người ta sẽ reo lên ngỡ ngàng khi tìm ra nó và bế nó về xuýt xoa và mắng mỏ, sai khiến và giục giã nhau thay quần áo, lấy khăn ướt lau mặt, dỗ dành chiều chuộng nó. Lúc ấy nó đã khoẻ hẳn rồi, đã muốn nhỏm dậy làm lấy mọi việc nhưng mắt vẫn phải hơi nhắm lại, miệng há ra thở, đôi môi khô lại, hcana tay vẫn mềm oặt thõng thượi theo những bàn tay nâng niu nắn bóp và vẫn phải thều thào đáp lại ú ớ những câu gọi hỏi của mọi người. Cái phút thấp thoáng nghe tiếng của anh, của chú, nó đã mừng đến ứa nước mắt, đã tủi thân giận dỗi đến run lên.
Chính lúc ấy chú Hà hỏi, cái lời lạnh như đêm sương muối:
- Ai như anh Tính?
- Gì đấy? Ai hỏi gì.
- Tôi đây!
- A ông. Con tưởng ai. Con vừa mới về.
Đợi anh vội vã đến gần, đứng một đoạn tre cắm xuống đất và sẵn sàng hứng đỡ mọi lời, ông Hà mới nói, giọng nhỏ, đã cố ghìm nỗi bực.
- Anh vô ý thức lắm!
- Dạ chú bảo..
- Thằng Sài đuổi vợ nó đi, đấy là việc của thằng trẻ con. Bố anh đánh chửi thằng Sài, là việc của ông lão phong kiến hủ bại. Còn anh, anh là cán bộ, gia đình anh là gia đình cách mạng, nếu ngày mai, ngày kia cả làng, cả tổng đồn ầm ã rằng nhà anh Tính cán bộ huyện, cháu ông Hà bí thư chi bộ xã cãi nhau, đánh nhau ầm ĩ suốt đêm thì anh còn mặt mũi nào nữa không? Tôi cho anh lên công tác trên huyện cốt để anh có điều kiện học tập, được chỉnh huấn cho nó mở mang, không ngờ anh vẫn...
- Cháu vừa về đến nhà đã thấy...
- Thấy thế nào, anh cũng phải trị thằng em anh không được hỗn. Tý tuổi đầu đã mất đoàn kết với vợ con. Hỉ mũi chưa sạch đã lên mặt làm chồng đánh chửi con người ta. Đấy là t ôi chưa kể quyền nam nữ bình đẳng, nhà nó mà kiện là mất hết, cả tôi, cả anh đeo mo vào mặt. Đứng trước việc đó vai trò của anh, của người cán bộ hoạt động cách mạng để ở đâu? Lẽ ra, phải biết giải thích đường lối chính sách cho bố mẹ anh thấm nhuần. Còn thằng Sài phải cho nó vài cái bạt tai.
- Vâng.
- Nhưng có đánh nó thì cũng phải kín, kẻo người ta lại bảo cán bộ không gương mẫu.
- Vâng.
- Nhưng mà... chủ yếu là đe nẹt rồi báo cho thầy giáo và phụ trách kiểm điểm ở lớp, ở đội, đừng làm gì ầm ĩ lên.
Nói được đến đâu nỗi giận của chú hả vợi đến đấy. Tính không ngờ vì thương em và vốn không ưa gì cái lề lối gia giáo của bố, anh đã hoảng hốt đi tìm nó. Thấy anh hoảng, vợ anh cũng hoảng, mấy bà thím dù thực lòng không để tâm lắm cũng giục giã con cái đi tìm anh Sài làm ồn ã cả một góc xóm. Cái việc nhỏ ấy đã biểu hiện ý thức non nớt của anh, anh đã để chú Hà cho rằng mấy tháng nay tuy đi học trên tỉnh nhưng anh vẫn chưa hề có tiến bộ gì.
Anh lững thững đi về nhà, ngồi vào chiếc tràng kỉ âm thầm như một bóng ma. Mãi mới ngẩng lên anh quát xuống bếp:
- Đi đằng nào, có châm hộ cái đèn không? Nhà cửa mù mịt lạnh lẽo như nghĩa địa mà vẫn để được, tôi lạ thật.
Anh quát vợ. Không ngờ, nói vừa dứt đã thấy một ngọn lửa xoè lên ở tràng kỷ bên kia. Bố đã ngồi lặng lẽ ở đấy khi nào. Ông lật bật nhắc bóng đèn dầu, đặt ngang chiếc đóm tre ngâm đang cháy, gạt gạt ống muỗng cho tàn than trên đầu bấc rời ra, kéo chiếc đóm lùi lại để ngọn lửa chèm lên đầuu muỗng và khi ngòi bấc nhú lên, bắt được ngọn lửa, ông chụp chiếc bóng ngay ngắn rồi mới dụi đóm vào khe chiếc điếu bát. Tất cả cử động ấy của ông của ông diễn ra một cách rụt rè và chậm, dường như nó là cái cớ để ông nghĩ ra một điều gì đó, sẽ nói một lời nào đó với thằng con ông. Vợ chồng ông có tám mặt con nhưng chỉ còn ba. Ba thằng con trai. Thằng cả thì đần và đã ở chỗ khác, cả nó, cả ông đều thấy yên phận kẻ làm con và người làm cha, không thấy phiền muộn trói buộc gì nhau. Thằng thứ hai, anh Tính - ông vẫn quen gọi một cá