Truyện Thời Xa Vắng
![]() | ![]() ![]() |
g khen: "Được đấy. Hiểu khá kỹ và sâu. Nhưng bỏ :"thưa các thủ trưởng" đi. Thủ trưởng đâu mà lắm thế. Tất cả họ ngồi đấy là học trò, còn mình là thầy. Không việc gì phải khúm núm, xun xoe, cứ đàng hoàng mà dạy. Anh nào không lắng nghe, không chịu học, cứ phê bình thẳng thắn". Sau ba buổi đầu, tức là gần nửa tháng Sài dạy học, chủ nhiệm chính trị gọi trợ lý văn hoá lên để hỏi.
- Cậu xem thế nào. Cái lớp bốn, anh em họ phản ứng ghê lắm. Họ bảo khinh thường họ, cho thằng trẻ con tâm thần dạy dỗ những anh đã từng đánh nhau sứt đầu mẻ trán.
Anh trợ lý nổi nóng, giọng anh lặng đi:
- Báo cáo anh, nếu nghĩ như vậy với hàm thiếu uý, tôi không thể dạy cho anh Mạnh và anh được nữa.
- Thì anh em họ phản ánh, mình cũng phải xem xét.
- Tôi muốn báo cáo với chủ nhiệm việc đó. Nếu xem xét kỹ những ý kiến ấy và kết luận, tôi đề nghị chủ nhiệm biết đích xác ai kêu ca phàn nàn, xin kỷ luật anh ta. Lý do như sau: Thứ nhất: những anh ấy đã bỏ học ba buổi liền bằng những lý do không chính đáng. Thứ hai: ngay buổi đầu tiên khôi phục lại lớp, có đến năm người trông thấy cậu Sài đã tự bỏ về. Như vậy vừa không tôn trọng con người, vừa vô kỷ luật. Còn những người đã học buổi đầu thì không ai bỏ buổi thứ hai, thứ ba, và họ không bao giờ nói như thế. Đã dự giảng buổi đầu tiên và thấy lớp đông dần hẳn lên, tôi rất yên tâm. Tôi xin đề nghị chủ nhiệm ký cho cái điện yêu cầu tất cả những đơn vị cán bộ học chương trình lớp bốn chiều thứ sáu này phải có mặt đầy đủ, hôm ấy mời chủ nhiệm đến dự lớp, cho ý kiến.
Không phải chỉ giảng riêng cho lớp bốn được yêu và tin cậy, những buổi giáo viên chuyên nghiệp đi vắng hoặc bận việc. Sài dạy thay cả lớp năm, lớp sáu, thậm chí ở lớp bảy nữa. ở lớp nào, anh cũng để cho học viên một ấn tượng không thể là người mới tốt nghiệp lớp bảy phổ thông. Vì chương trình bổ túc trong quân đội có chỗ cao hơn phổ thông, làm sao giảng được trơn tru dễ hiểu và giải đáp được tất cả thắc mắc của học viên, không cần phải đợi đến buổi khác "nghiên cứu thêm".
Sài được chuyển hẳn sang sinh hoạt với tổ giáo viên vì phải dạy nhiều hơn và để anh có nhiều thời gian tự học. Vừa dạy, vừa phải học thêm nhưng tất cả công việc từ đánh rửa thau chậu, giúp anh nuôi vào sáng thứ bảy hàng tuần, lấy gạo, kiếm củi, lao động xã hội chủ nghĩa ngày chủ nhật, chiều chiều xách nước tưới rau... nghĩa là phần việc gì của cả tổ giáo viên của cả ban chính trị, anh cũng được gọi đến và làm hết mà vẫn thấy như không hề vất vả khó nhọc gì. Yêu mến anh như một thằng em út, các giáo viên đã tốt nghiệp đại học sư phạm đều tận tình và sẵn sàng giảng cho anh hàng buổi liền. Tháng sáu năm sau, tức là anh đã công tác ở trung đoàn bộ được hơn một năm, trung đoàn cho anh đi thi tốt nghiệp lớp mười ở trường bổ túc văn hoá của Quân khu. Anh đỗ vào loại ưu, được chọn gửi đi học trường đại học sư phạm ở Hà Nội.
Sự kiện ấy, cộng với lòng yêu mến của cán bộ đã học anh, cả trung đoàn 25 xôn xao, có phần quá đáng, về một tài năng, một tấm gương và những chuyện đồn đại về cuốn nhật ký hơn một năm trước đây được coi như là dấu hiệu của một tài năng suýt bị vùi dập. Nhưng những người điềm tĩnh hơn hiểu anh hơn như Hiểu, thiếu uý trợ lý văn hoá trung đoàn thì coi đó là sự tất nhiên của một người có chí, ham học và chịu đựng nhẫn nhục mà học. Anh, cũng như tổ giáo viên của anh, không hề bàn luận, xem như chuyện đó mình không tường tận cho lắm. Riêng chính uỷ Đỗ Mạnh biết rõ từ chuyện cô Kim y tá trạm xá lo lắng cho "anh Sài" như anh trai mình (ừ, con bé ấy cũng thật là tinh) đến chuyện từ ngày đi bộ đội đến nay Sài không hề gửi thư cho ai, cốt để mọi người coi mình như đã "biệt tăm" và cô Hương có thật hay là sự tưởng tượng...! Nhưng ông lại coi như mình không hề biết gì. Ngoài ba người là: trưởng trạm xá và hai cán bộ đại đội 12 được ông nhắc nhở phê phán như là sự quan tâm đến một chiến sỹ bất kỳ nào đấy, không ai biết ông với Sài có mối liên quan gì đến nhau. Ông cũng chưa hề viết lá thư nào cho Hà. Chắc hiểu ông, Hà cũng không hề hỏi han gì cháu mình. Còn với Sài, khi lên trung đoàn, cậu ta nhận ra "ông thủ kho", ông cũng coi như không có chuyện đó. Thái độ của ông hơn một năm qua là "kệ nó". Còn ông thì cứ lặng lẽ mà tìm hiểu, lặng lẽ mà xem xét. Ngay hôm Sài mới ở trường văn hóa Quân khu về để chuẩn bị vào trường đại học. Hiểu bảo ông: "Tối nay tôi đưa cậu Sài lên báo cáo anh" ông cũng gạt đi: "Mình cũng như mọi người, mừng cho cậu ấy thôi. Các anh lo cho cậu ấy đi, đừng vẽ chuyện đến mìnhh, mất thì giờ của cậu ấy ra". Những ngày còn lại ở trung đoàn đối với Sài quý như vàng, bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu người cần phải chia tay, bao nhiêu điều muốn nói với anh Hiểu và các anh trong tổ giáo viên đều chưa làm được. Đang chộn rộn rối bời bỗng Sài giật thót nghe Hiểu reo lên: "Sài đâu rồi ra chiêu đãi sơ, vợ đến". Thật hay hư? Ai mách bảo địa chỉ để cô ta tìm đến đây. Mồ hôi vã ra như tắm, mặt tái đi, Sài đứng chết lặng giữa nhà. Hiểu từ phía nhà trực ban cười cười bước vào. Hơi sững lại một thoáng, giọng anh hờ hững: "Thôi chuẩn bị mà đi đi. Cơm chiều xong bọn mình kéo nhau ra". Sài muốn gục mặt xuống giường oà khóc nhưng lại phải bật lên tiếng "vâng" nghẹn ứ giữa cổ.
Rất chi là may mắn, nhờ anh bộ đội đi cùng chuyến đò, Tuyết dò dẫm hỏi được địa chỉ, cô đi thăm chồng với sự trải chuốt ăn diện có thể gọi là nhất làng Bái hồi bấy giờ. Một áo sơ mi màu nõn chuối, một áo lót "đông xuân" màu hồng mặc phía trong nhưng vẫn thể hiện được cái màu hồng hoe ấy lộ ra ở cổ và cả một đoạn thừa chừng nửa đốt ngón tay thò dưới áo ngoài. Đầu chải bê xăng tin nhếnh nháng lật ngược và được đè ập xuống bởi vòng khăn vấn bằng vải toan nhuộm màu nâu non còn mới trông nó chặt chằng như một cái đai. Chiếc quần láng súng sính dài quét gót, nhưng lại xắn vận vào cạp kéo ống lên ngang cổ chân để lộ đôi bàn to bè bè, chi chít từng vệt đen như gai cào. Nó căng lên, nứt nở bởi những quai dép cao su chằng cả phía trước và phía sau. Mới đến trạm chưa được hai tiếng đồng hồ, cô đã chạy đi các phòng cười rối rít, gặp ai cũng chào, thấy việc gì cũng làm giúp. Sài đến cổng thấy cô đang chổng mông cúi xuống giếng thơi kéo nước cho một chị con mọn cũng đến thăm chồng. Cả áo trong, áo ngoài kéo lên để lộ mảng lưng đen, lằn từng múi thịt. Chị con mọn đợi cô đổ cho gầu nước vào thùng sẽ sàng nhắc: "Em cho áo trong vào quần cho nó gọn". Cô cười thoải mái, nói như cho cả người ngoài đường nghe: "ở quê em, người ta cứ để thế cho nó mát chị ợ" - "Muốn mát thì mặc áo ngoài không cũng được" - "Leo ơi, thế thì nó thồng thỗng, trong quỷnh lắm, em chịu" Thấy cô nói to, chị con mọn ngượng vội nhìn ra phía cổng chị quay vào nhắc khẽ: "Có chú bộ đội ở ngoài kia, xem có phải chú ấy không?" Cô quay ra reo: "Đúng nhà em rồi chị ạ. Em về chị nhớ". Cô nói cười thoải mái khiến một vòng cốt trầu quành trên môi từ lúc nào cô vô ý chưa lau như kéo vào cái miệng rộng ra, trông càng toe toét. Cô son són đi trước, Sài lầm lũi theo sau. Anh định rẽ vào phòng câu lạc bộ đọc sách, cô gọi "Nhà mình đằng này cơ anh ơi". Miễn cưỡng Sài quay theo, anh rảo bước như muốn chui tọt vào phòng để khỏi ai trông thấy. Trên mặt chiếc bàn con đầu giường, cô đã bày đủ thứ: ấm, chén, ca, chanh, đường, chuối, bọc thư, bọc quà, bó mía. Rót nước ra ca xong, cô chạy lạch bạch ra ngoài cười nói hớn hở cách ba bốn dãy còn nghe thấy.
- Bác có dao cho em mượn, em bổ quả chanh pha cho nhà em ca nước.
- Mời bác sang chơi. Nhà em ra rồi bác ạ.
- Anh chị mời cơm xong sang nhà em xơi nước.
- Nhà này lấy cơm sớm để tối đi xem phim hả? Dạ! Vâng! Ngoài bến xe có phim bác ạ. Lúc nào đi các bác gọi chúng em với. Hé, hé, còn cả đêm, xem phim một lúc, lo gì hả các bác!
Cô lại lạch bạch chạy về, nói cười hổn hển.
Sài đang bóp tay vào hai thái dương gục xuống mặt bàn vội đứng dậy cầm quyển sách đi ra cửa.
- Để pha nước cho anh uống rồi hẵng đi.
Nhưng anh không thể nói nổi lấy một lời, lùi lũi ra ngồi đọc sách ở câu lạc bộ. Ăn cơm chiều xong, anh em giáo viên và ban Năm, có cả Kim và mấy y tá trạm xá kéo đến chật ních phòng. Họ cứ hùn vào để cô ta nói huyên thuyên đủ mọi chuyện. Nào làng em đã vào hợp tác hết tất cả phần trăm ("chắc là trăm phần trăm đấy"). Vâng, tất ráo cả phần trăm đấy ạ. Nào lợn không thả rông ỉa đầy đường, đầy ngõ mà vẫn không có phân. Lợn đã có chuồng, người lớn trẻ con cũng phải đi nhà xí không được bậy bạ. Cánh đồng bãi là cứ chính sách giồng lúa lốc tất tật. Nào hai gia đinh thương binh liệt sỹ được một cái chăn bông, còn nhân dân mười gia đình một cái (tỷ lệ một phần hai và một phần mười). Vâng, hai phần một mười đấy ạ. Nào vụ ngô vừa rồi bội thực chưa từng thấy. Đến đây thì mọi người không thể nén được, họ bung ra cười rũ rượi, gật đầu lia lịa và tán thưởng. "Bội thu chưa từng thấy. Thế thì yên tâm, quê ta không bị đói nữa chị nhỉ" - "Khá khá, khá thật". Tuyết là con nhà khá giả những lại là con vợ lẽ và bắt đầu đến tuổi thiếu niên cô đã đi làm dâu. Cô học bình dân hơn năm năm mới đánh vần sách in, một giờ được một trang, mà vật vã như người vật nhau. Còn đoàn thể: cô có tên trong đội thiếu niên nhưng chưa bao giờ đi họp. Lớn lên cô cũng lại có tên trong cả hội phụ nữ và đoàn thanh niên nhưng biết chẳng bao giờ cô đi họp nên người nào làm cán bộ cũng quên cô là người của đoàn thể mình. Tất cả chính sách, chủ trương cô nghe được ối. Nghe lõm bõm câu được câu chăng, nhớ đoạn này chắp và đoạn kia, được đến đâu hay đến đấy, chứ không dám hỏi ai vì cô dè dặt, không biết đối đáp. Hơn mọt năm nay, Sài đi bộ đội, chị em mới bảo Sài chê cô là ít nói và cả thẹn. Bởi thế cô phải luyện. Ra đồng cô cũng táo tợn tán tỉnh đủ mọi chuyện xô bồ tục tĩu, tán cả chuyện thời cuộc làm ăn đầy những danh từ mới lạ, có khi chả hiểu nó là cái gì, quen mồm thì nói. Mới lỵ cũng phải nói để không ai có thể chê cười mình là đần độn thu chị kém em. Nói lắm thành nghiện. Càng nghiện càng tưởng mình hay ho, càng tưởng mình hay ho, càng muốn nói nhiều. Đến hôm nay thì cô càng tin mình tiếp chuyện bạn bè của chồng cũng không đến nỗi nào. Bởi thế mới khổ. Giá cô ta cứ câm đi còn đỡ nhục nhã. Kim vừa bước ra khỏi cổng khu gia đình đã trách: "Thế mà ông Sài bịa là vợ học cấp ba, cấp bốn giỏi văn lắm", cánh ban Năm và giáo viên thì tha hồ kể đến hàng tuần để cho cả cơ quan trung đoàn bộ cứ lăn ra cười. Nhưng ai cũng hết sức vun vào, khuyên Sài chính lúc này lại cần phải yêu vợ để khỏi mang tiếng được học hành tiến bộ chê cô vợ quê mùa. Có anh nói tục: Ôi dà, cần thì úp cái chăn vào mặt là xong tất". Nhưng Sài không thể nào "cố gắng" được. Ba đêm cô ta ở chiêu đãi sở, cả ba đêm Sài thức trắng ngồi đọc sách. Cô trở lại cái bản tính yếu đuối của mình. Không thể nằm yên, hết thở ngắn, thở dài, giở mình ra, giở mình vào, rồi ngồi dậy đi ra, khi trở vào thổi phụt ngọn đèn dầu. Sài lặng lẽ châm lại. Bao nhiêu lần vẫn thế, cô ta không dám nói một lời vì vẫn có phần sợ Sài. Còn Sài, cũng không thể như khi còn ở nhà, nghĩ là anh vẫn ngồi ăn cơm chung khi mỗi bữa cô mang cơm ở nhà bếp về phòng. Dù tự tay mình xới lấy, Sài vẫn phải trả lời những đòi hỏi của cô: "Người ta bảo trong kia đẹp lắm, mai vào xem đi" - "Cô thích thì cứ đi, tôi đang bận học" - "Ngày mai mua ít cua bể về ăn, nghe bảo bổ lắm, có tiền thầy mẹ cho rằng hai nhà cho đây" - "Tôi không thích loại đó" - "Thế anh thích tôm he không?" - "Tôi lạy cô, để im cho tôi nhờ một tý". Chỉ đến hôm hai người "cùng về quê" là Sài phải mua vé chung. Đến khi ngồi, anh lại đổi chỗ xuống dưới cùng. Hôm ấy, chính uỷ Đỗ Mạnh như là từ đâu về, qua bến xe rất sớm, ông chào cô rồi bảo Sài ra một chỗ vắng. Ông đưa cho Sài hai chục và nói một câu: "Cầm lấy đi đường uống nước". Sài rụt tay lại, ông cứ đặt tiền vào tay anh và nói câu nữa: "Tất cả phải cố nén lại mà học đã". Nói xong ông chào Tuyết rồi đạp xe đi, không để cho Sài kịp nói lời nào
Sài không về nhà. Anh đi thẳng lên Hà Nội, vào trạm 66 nộp giấy tờ, làm các thủ tục. Chờ ngày vào trường, anh đến trường cấp III của Hương. Năm nay Hương lên lớp mười. Học sinh đến trường trước một tuần để kiểm tra chất lượng học hè. Vừa xuống xe, nghe tin ấy, Sài không còn thậm thọt lo cho bao nhiêu câu hỏi suốt dọc đường về sự rủi ro không gặp được Hương. Hẳn rằng thầy Chởi, các thầy cô giáo và bạn bè của Hương không ngờ là Sài được vào đại học trong năm nay. Còn Hương, khỏi phải nói đến nỗi sung sướng mừng tủi của cô như thế nào! Sài đã không nhần khi các thầy cô và bạn bè Hương đều quấn quýt trầm trồ khen ngợi anh. Duy chỉ có Hương là lẩn tránh. Lúc ở lớp về đến đầu ngõ, đã thấy Sài ở trong nhà trọ của cô, cô quay đi ngay, để suốt ngày hôm ấy không ai biết cô đi đâu. Mãi đến khoảng tám giờ tối cô mới cùng một thanh niên trông trắng trẻo và hiền lành đi về. Trẻ con nhà chủ reo: "Chị Hương đây rồi, ối giời ơi, chị Hương bỏ đi đâu cả nhà mong. Anh Sài cũng đến có việc gì đấy". Sài đứng chết lặng. Cả gia đình chủ nhà ngơ ngác. Mới thấy tháng trước, khi chưa về nghỉ hè, không mấy hôm là cả nhà không nghe cô kể một chuyện gì đấy về Sài, về cái làng Bái lụt lội của anh. Nỗi thổn thức, thấp thỏm của cô chờ tin Sài, nỗi đau khổ buồn rầu tại sao anh lại ra đi không hề viết cho cô vài dòng, cô cũng thổ lộ với người con gái lớn của nhà chủ mà cô coi như một người chị. Có lẽ nó giận quá đấy mà. Cả nhà nghĩ như thế.
Ba người ngồi ba hòn đá ở chiếc chiếu trẻ con đem dải ở giữa sân. Họ im lặng lâu đến mức không thề ngồi im lặng được. Sài hỏi:
- Hương về hè có vui không?
- Cũng vui.
- Mùa màng quê mình độ này thế nào?
- Cũng như mọi khi.
- Cụ ở nhà có khoẻ không.
- Bình thường.
- Chắc khi chú Hà tôi đi học Hương đã nghi hè rồi.
- Không rõ lắm.
- Nghe nói thầy đi học ở Hà Nội.
- Tôi cũng không được biết.
Những câu đối thoại nghe nhạt nhẽo đến mức có "cố đấm anư xôi" đến đâu cũng không thể tiếp tục được nữa. Sài đứng dậy vào nhà chào cụ chủ để ra đi. Mọi người ngỡ ngàng, khuyên anh. Cô gái lớn chạy ra sân. "Thế nào Hương?" - Anh ấy chả có việc gì ở đây, để anh ấy đi thôi". Từ hôm ấy đến đây, thấy Hương rầu rĩ im lặng, chị chưa có dịp hỏi "tình hình thế nào". Vẫn tưởng chỉ là nỗi giận dỗi tích tụ của Hương khiến cô xử sự như thế. Chị quyết định: "Kệ mày, tao giữ nó lại" - "Nếu chị định đuổi em đi thì tuỳ chị" - "Nhưng đang đêm hôm thế này" - "Việc đó không phải của em". Biết đã có chuyện gì xảy ra không thể can ngăn, chị con gái lớn nhà chủ đành đứng im. Sài bước xuống sân: "Chào Hương". Hương như không nghe thấy, cô bảo người con trai kia: "Chúng mình đi đi". Đến hai mươi mốt năm sau, cô còn ân hận những giây phút này. Nhưng cô rất thoả mãn về câu nói cảu mình đã như một phát đại bác bắn vào Sài. Cô không thể ngẫm nghĩ, phân tích và chờ đợi khi có một hiện tượng, dù chỉ là sự đồn đại về người yêu mình không còn chung thuỷ. Huống hồ đang lúc cô đau đớn và hy vọng. Đã mấy năm trời đau đớn và hy vọng. về sự ra đi biệt tăm của Sài. Về nghỉ hè lại bỗng nghe tin vợ Sài sắp sửa đi thăm chồng. Cả hàng tháng nay người ngoài biết vợ Sài đã có địa chỉ của anh t
- Cậu xem thế nào. Cái lớp bốn, anh em họ phản ứng ghê lắm. Họ bảo khinh thường họ, cho thằng trẻ con tâm thần dạy dỗ những anh đã từng đánh nhau sứt đầu mẻ trán.
Anh trợ lý nổi nóng, giọng anh lặng đi:
- Báo cáo anh, nếu nghĩ như vậy với hàm thiếu uý, tôi không thể dạy cho anh Mạnh và anh được nữa.
- Thì anh em họ phản ánh, mình cũng phải xem xét.
- Tôi muốn báo cáo với chủ nhiệm việc đó. Nếu xem xét kỹ những ý kiến ấy và kết luận, tôi đề nghị chủ nhiệm biết đích xác ai kêu ca phàn nàn, xin kỷ luật anh ta. Lý do như sau: Thứ nhất: những anh ấy đã bỏ học ba buổi liền bằng những lý do không chính đáng. Thứ hai: ngay buổi đầu tiên khôi phục lại lớp, có đến năm người trông thấy cậu Sài đã tự bỏ về. Như vậy vừa không tôn trọng con người, vừa vô kỷ luật. Còn những người đã học buổi đầu thì không ai bỏ buổi thứ hai, thứ ba, và họ không bao giờ nói như thế. Đã dự giảng buổi đầu tiên và thấy lớp đông dần hẳn lên, tôi rất yên tâm. Tôi xin đề nghị chủ nhiệm ký cho cái điện yêu cầu tất cả những đơn vị cán bộ học chương trình lớp bốn chiều thứ sáu này phải có mặt đầy đủ, hôm ấy mời chủ nhiệm đến dự lớp, cho ý kiến.
Không phải chỉ giảng riêng cho lớp bốn được yêu và tin cậy, những buổi giáo viên chuyên nghiệp đi vắng hoặc bận việc. Sài dạy thay cả lớp năm, lớp sáu, thậm chí ở lớp bảy nữa. ở lớp nào, anh cũng để cho học viên một ấn tượng không thể là người mới tốt nghiệp lớp bảy phổ thông. Vì chương trình bổ túc trong quân đội có chỗ cao hơn phổ thông, làm sao giảng được trơn tru dễ hiểu và giải đáp được tất cả thắc mắc của học viên, không cần phải đợi đến buổi khác "nghiên cứu thêm".
Sài được chuyển hẳn sang sinh hoạt với tổ giáo viên vì phải dạy nhiều hơn và để anh có nhiều thời gian tự học. Vừa dạy, vừa phải học thêm nhưng tất cả công việc từ đánh rửa thau chậu, giúp anh nuôi vào sáng thứ bảy hàng tuần, lấy gạo, kiếm củi, lao động xã hội chủ nghĩa ngày chủ nhật, chiều chiều xách nước tưới rau... nghĩa là phần việc gì của cả tổ giáo viên của cả ban chính trị, anh cũng được gọi đến và làm hết mà vẫn thấy như không hề vất vả khó nhọc gì. Yêu mến anh như một thằng em út, các giáo viên đã tốt nghiệp đại học sư phạm đều tận tình và sẵn sàng giảng cho anh hàng buổi liền. Tháng sáu năm sau, tức là anh đã công tác ở trung đoàn bộ được hơn một năm, trung đoàn cho anh đi thi tốt nghiệp lớp mười ở trường bổ túc văn hoá của Quân khu. Anh đỗ vào loại ưu, được chọn gửi đi học trường đại học sư phạm ở Hà Nội.
Sự kiện ấy, cộng với lòng yêu mến của cán bộ đã học anh, cả trung đoàn 25 xôn xao, có phần quá đáng, về một tài năng, một tấm gương và những chuyện đồn đại về cuốn nhật ký hơn một năm trước đây được coi như là dấu hiệu của một tài năng suýt bị vùi dập. Nhưng những người điềm tĩnh hơn hiểu anh hơn như Hiểu, thiếu uý trợ lý văn hoá trung đoàn thì coi đó là sự tất nhiên của một người có chí, ham học và chịu đựng nhẫn nhục mà học. Anh, cũng như tổ giáo viên của anh, không hề bàn luận, xem như chuyện đó mình không tường tận cho lắm. Riêng chính uỷ Đỗ Mạnh biết rõ từ chuyện cô Kim y tá trạm xá lo lắng cho "anh Sài" như anh trai mình (ừ, con bé ấy cũng thật là tinh) đến chuyện từ ngày đi bộ đội đến nay Sài không hề gửi thư cho ai, cốt để mọi người coi mình như đã "biệt tăm" và cô Hương có thật hay là sự tưởng tượng...! Nhưng ông lại coi như mình không hề biết gì. Ngoài ba người là: trưởng trạm xá và hai cán bộ đại đội 12 được ông nhắc nhở phê phán như là sự quan tâm đến một chiến sỹ bất kỳ nào đấy, không ai biết ông với Sài có mối liên quan gì đến nhau. Ông cũng chưa hề viết lá thư nào cho Hà. Chắc hiểu ông, Hà cũng không hề hỏi han gì cháu mình. Còn với Sài, khi lên trung đoàn, cậu ta nhận ra "ông thủ kho", ông cũng coi như không có chuyện đó. Thái độ của ông hơn một năm qua là "kệ nó". Còn ông thì cứ lặng lẽ mà tìm hiểu, lặng lẽ mà xem xét. Ngay hôm Sài mới ở trường văn hóa Quân khu về để chuẩn bị vào trường đại học. Hiểu bảo ông: "Tối nay tôi đưa cậu Sài lên báo cáo anh" ông cũng gạt đi: "Mình cũng như mọi người, mừng cho cậu ấy thôi. Các anh lo cho cậu ấy đi, đừng vẽ chuyện đến mìnhh, mất thì giờ của cậu ấy ra". Những ngày còn lại ở trung đoàn đối với Sài quý như vàng, bao nhiêu việc phải làm, bao nhiêu người cần phải chia tay, bao nhiêu điều muốn nói với anh Hiểu và các anh trong tổ giáo viên đều chưa làm được. Đang chộn rộn rối bời bỗng Sài giật thót nghe Hiểu reo lên: "Sài đâu rồi ra chiêu đãi sơ, vợ đến". Thật hay hư? Ai mách bảo địa chỉ để cô ta tìm đến đây. Mồ hôi vã ra như tắm, mặt tái đi, Sài đứng chết lặng giữa nhà. Hiểu từ phía nhà trực ban cười cười bước vào. Hơi sững lại một thoáng, giọng anh hờ hững: "Thôi chuẩn bị mà đi đi. Cơm chiều xong bọn mình kéo nhau ra". Sài muốn gục mặt xuống giường oà khóc nhưng lại phải bật lên tiếng "vâng" nghẹn ứ giữa cổ.
Rất chi là may mắn, nhờ anh bộ đội đi cùng chuyến đò, Tuyết dò dẫm hỏi được địa chỉ, cô đi thăm chồng với sự trải chuốt ăn diện có thể gọi là nhất làng Bái hồi bấy giờ. Một áo sơ mi màu nõn chuối, một áo lót "đông xuân" màu hồng mặc phía trong nhưng vẫn thể hiện được cái màu hồng hoe ấy lộ ra ở cổ và cả một đoạn thừa chừng nửa đốt ngón tay thò dưới áo ngoài. Đầu chải bê xăng tin nhếnh nháng lật ngược và được đè ập xuống bởi vòng khăn vấn bằng vải toan nhuộm màu nâu non còn mới trông nó chặt chằng như một cái đai. Chiếc quần láng súng sính dài quét gót, nhưng lại xắn vận vào cạp kéo ống lên ngang cổ chân để lộ đôi bàn to bè bè, chi chít từng vệt đen như gai cào. Nó căng lên, nứt nở bởi những quai dép cao su chằng cả phía trước và phía sau. Mới đến trạm chưa được hai tiếng đồng hồ, cô đã chạy đi các phòng cười rối rít, gặp ai cũng chào, thấy việc gì cũng làm giúp. Sài đến cổng thấy cô đang chổng mông cúi xuống giếng thơi kéo nước cho một chị con mọn cũng đến thăm chồng. Cả áo trong, áo ngoài kéo lên để lộ mảng lưng đen, lằn từng múi thịt. Chị con mọn đợi cô đổ cho gầu nước vào thùng sẽ sàng nhắc: "Em cho áo trong vào quần cho nó gọn". Cô cười thoải mái, nói như cho cả người ngoài đường nghe: "ở quê em, người ta cứ để thế cho nó mát chị ợ" - "Muốn mát thì mặc áo ngoài không cũng được" - "Leo ơi, thế thì nó thồng thỗng, trong quỷnh lắm, em chịu" Thấy cô nói to, chị con mọn ngượng vội nhìn ra phía cổng chị quay vào nhắc khẽ: "Có chú bộ đội ở ngoài kia, xem có phải chú ấy không?" Cô quay ra reo: "Đúng nhà em rồi chị ạ. Em về chị nhớ". Cô nói cười thoải mái khiến một vòng cốt trầu quành trên môi từ lúc nào cô vô ý chưa lau như kéo vào cái miệng rộng ra, trông càng toe toét. Cô son són đi trước, Sài lầm lũi theo sau. Anh định rẽ vào phòng câu lạc bộ đọc sách, cô gọi "Nhà mình đằng này cơ anh ơi". Miễn cưỡng Sài quay theo, anh rảo bước như muốn chui tọt vào phòng để khỏi ai trông thấy. Trên mặt chiếc bàn con đầu giường, cô đã bày đủ thứ: ấm, chén, ca, chanh, đường, chuối, bọc thư, bọc quà, bó mía. Rót nước ra ca xong, cô chạy lạch bạch ra ngoài cười nói hớn hở cách ba bốn dãy còn nghe thấy.
- Bác có dao cho em mượn, em bổ quả chanh pha cho nhà em ca nước.
- Mời bác sang chơi. Nhà em ra rồi bác ạ.
- Anh chị mời cơm xong sang nhà em xơi nước.
- Nhà này lấy cơm sớm để tối đi xem phim hả? Dạ! Vâng! Ngoài bến xe có phim bác ạ. Lúc nào đi các bác gọi chúng em với. Hé, hé, còn cả đêm, xem phim một lúc, lo gì hả các bác!
Cô lại lạch bạch chạy về, nói cười hổn hển.
Sài đang bóp tay vào hai thái dương gục xuống mặt bàn vội đứng dậy cầm quyển sách đi ra cửa.
- Để pha nước cho anh uống rồi hẵng đi.
Nhưng anh không thể nói nổi lấy một lời, lùi lũi ra ngồi đọc sách ở câu lạc bộ. Ăn cơm chiều xong, anh em giáo viên và ban Năm, có cả Kim và mấy y tá trạm xá kéo đến chật ních phòng. Họ cứ hùn vào để cô ta nói huyên thuyên đủ mọi chuyện. Nào làng em đã vào hợp tác hết tất cả phần trăm ("chắc là trăm phần trăm đấy"). Vâng, tất ráo cả phần trăm đấy ạ. Nào lợn không thả rông ỉa đầy đường, đầy ngõ mà vẫn không có phân. Lợn đã có chuồng, người lớn trẻ con cũng phải đi nhà xí không được bậy bạ. Cánh đồng bãi là cứ chính sách giồng lúa lốc tất tật. Nào hai gia đinh thương binh liệt sỹ được một cái chăn bông, còn nhân dân mười gia đình một cái (tỷ lệ một phần hai và một phần mười). Vâng, hai phần một mười đấy ạ. Nào vụ ngô vừa rồi bội thực chưa từng thấy. Đến đây thì mọi người không thể nén được, họ bung ra cười rũ rượi, gật đầu lia lịa và tán thưởng. "Bội thu chưa từng thấy. Thế thì yên tâm, quê ta không bị đói nữa chị nhỉ" - "Khá khá, khá thật". Tuyết là con nhà khá giả những lại là con vợ lẽ và bắt đầu đến tuổi thiếu niên cô đã đi làm dâu. Cô học bình dân hơn năm năm mới đánh vần sách in, một giờ được một trang, mà vật vã như người vật nhau. Còn đoàn thể: cô có tên trong đội thiếu niên nhưng chưa bao giờ đi họp. Lớn lên cô cũng lại có tên trong cả hội phụ nữ và đoàn thanh niên nhưng biết chẳng bao giờ cô đi họp nên người nào làm cán bộ cũng quên cô là người của đoàn thể mình. Tất cả chính sách, chủ trương cô nghe được ối. Nghe lõm bõm câu được câu chăng, nhớ đoạn này chắp và đoạn kia, được đến đâu hay đến đấy, chứ không dám hỏi ai vì cô dè dặt, không biết đối đáp. Hơn mọt năm nay, Sài đi bộ đội, chị em mới bảo Sài chê cô là ít nói và cả thẹn. Bởi thế cô phải luyện. Ra đồng cô cũng táo tợn tán tỉnh đủ mọi chuyện xô bồ tục tĩu, tán cả chuyện thời cuộc làm ăn đầy những danh từ mới lạ, có khi chả hiểu nó là cái gì, quen mồm thì nói. Mới lỵ cũng phải nói để không ai có thể chê cười mình là đần độn thu chị kém em. Nói lắm thành nghiện. Càng nghiện càng tưởng mình hay ho, càng tưởng mình hay ho, càng muốn nói nhiều. Đến hôm nay thì cô càng tin mình tiếp chuyện bạn bè của chồng cũng không đến nỗi nào. Bởi thế mới khổ. Giá cô ta cứ câm đi còn đỡ nhục nhã. Kim vừa bước ra khỏi cổng khu gia đình đã trách: "Thế mà ông Sài bịa là vợ học cấp ba, cấp bốn giỏi văn lắm", cánh ban Năm và giáo viên thì tha hồ kể đến hàng tuần để cho cả cơ quan trung đoàn bộ cứ lăn ra cười. Nhưng ai cũng hết sức vun vào, khuyên Sài chính lúc này lại cần phải yêu vợ để khỏi mang tiếng được học hành tiến bộ chê cô vợ quê mùa. Có anh nói tục: Ôi dà, cần thì úp cái chăn vào mặt là xong tất". Nhưng Sài không thể nào "cố gắng" được. Ba đêm cô ta ở chiêu đãi sở, cả ba đêm Sài thức trắng ngồi đọc sách. Cô trở lại cái bản tính yếu đuối của mình. Không thể nằm yên, hết thở ngắn, thở dài, giở mình ra, giở mình vào, rồi ngồi dậy đi ra, khi trở vào thổi phụt ngọn đèn dầu. Sài lặng lẽ châm lại. Bao nhiêu lần vẫn thế, cô ta không dám nói một lời vì vẫn có phần sợ Sài. Còn Sài, cũng không thể như khi còn ở nhà, nghĩ là anh vẫn ngồi ăn cơm chung khi mỗi bữa cô mang cơm ở nhà bếp về phòng. Dù tự tay mình xới lấy, Sài vẫn phải trả lời những đòi hỏi của cô: "Người ta bảo trong kia đẹp lắm, mai vào xem đi" - "Cô thích thì cứ đi, tôi đang bận học" - "Ngày mai mua ít cua bể về ăn, nghe bảo bổ lắm, có tiền thầy mẹ cho rằng hai nhà cho đây" - "Tôi không thích loại đó" - "Thế anh thích tôm he không?" - "Tôi lạy cô, để im cho tôi nhờ một tý". Chỉ đến hôm hai người "cùng về quê" là Sài phải mua vé chung. Đến khi ngồi, anh lại đổi chỗ xuống dưới cùng. Hôm ấy, chính uỷ Đỗ Mạnh như là từ đâu về, qua bến xe rất sớm, ông chào cô rồi bảo Sài ra một chỗ vắng. Ông đưa cho Sài hai chục và nói một câu: "Cầm lấy đi đường uống nước". Sài rụt tay lại, ông cứ đặt tiền vào tay anh và nói câu nữa: "Tất cả phải cố nén lại mà học đã". Nói xong ông chào Tuyết rồi đạp xe đi, không để cho Sài kịp nói lời nào
Sài không về nhà. Anh đi thẳng lên Hà Nội, vào trạm 66 nộp giấy tờ, làm các thủ tục. Chờ ngày vào trường, anh đến trường cấp III của Hương. Năm nay Hương lên lớp mười. Học sinh đến trường trước một tuần để kiểm tra chất lượng học hè. Vừa xuống xe, nghe tin ấy, Sài không còn thậm thọt lo cho bao nhiêu câu hỏi suốt dọc đường về sự rủi ro không gặp được Hương. Hẳn rằng thầy Chởi, các thầy cô giáo và bạn bè của Hương không ngờ là Sài được vào đại học trong năm nay. Còn Hương, khỏi phải nói đến nỗi sung sướng mừng tủi của cô như thế nào! Sài đã không nhần khi các thầy cô và bạn bè Hương đều quấn quýt trầm trồ khen ngợi anh. Duy chỉ có Hương là lẩn tránh. Lúc ở lớp về đến đầu ngõ, đã thấy Sài ở trong nhà trọ của cô, cô quay đi ngay, để suốt ngày hôm ấy không ai biết cô đi đâu. Mãi đến khoảng tám giờ tối cô mới cùng một thanh niên trông trắng trẻo và hiền lành đi về. Trẻ con nhà chủ reo: "Chị Hương đây rồi, ối giời ơi, chị Hương bỏ đi đâu cả nhà mong. Anh Sài cũng đến có việc gì đấy". Sài đứng chết lặng. Cả gia đình chủ nhà ngơ ngác. Mới thấy tháng trước, khi chưa về nghỉ hè, không mấy hôm là cả nhà không nghe cô kể một chuyện gì đấy về Sài, về cái làng Bái lụt lội của anh. Nỗi thổn thức, thấp thỏm của cô chờ tin Sài, nỗi đau khổ buồn rầu tại sao anh lại ra đi không hề viết cho cô vài dòng, cô cũng thổ lộ với người con gái lớn của nhà chủ mà cô coi như một người chị. Có lẽ nó giận quá đấy mà. Cả nhà nghĩ như thế.
Ba người ngồi ba hòn đá ở chiếc chiếu trẻ con đem dải ở giữa sân. Họ im lặng lâu đến mức không thề ngồi im lặng được. Sài hỏi:
- Hương về hè có vui không?
- Cũng vui.
- Mùa màng quê mình độ này thế nào?
- Cũng như mọi khi.
- Cụ ở nhà có khoẻ không.
- Bình thường.
- Chắc khi chú Hà tôi đi học Hương đã nghi hè rồi.
- Không rõ lắm.
- Nghe nói thầy đi học ở Hà Nội.
- Tôi cũng không được biết.
Những câu đối thoại nghe nhạt nhẽo đến mức có "cố đấm anư xôi" đến đâu cũng không thể tiếp tục được nữa. Sài đứng dậy vào nhà chào cụ chủ để ra đi. Mọi người ngỡ ngàng, khuyên anh. Cô gái lớn chạy ra sân. "Thế nào Hương?" - Anh ấy chả có việc gì ở đây, để anh ấy đi thôi". Từ hôm ấy đến đây, thấy Hương rầu rĩ im lặng, chị chưa có dịp hỏi "tình hình thế nào". Vẫn tưởng chỉ là nỗi giận dỗi tích tụ của Hương khiến cô xử sự như thế. Chị quyết định: "Kệ mày, tao giữ nó lại" - "Nếu chị định đuổi em đi thì tuỳ chị" - "Nhưng đang đêm hôm thế này" - "Việc đó không phải của em". Biết đã có chuyện gì xảy ra không thể can ngăn, chị con gái lớn nhà chủ đành đứng im. Sài bước xuống sân: "Chào Hương". Hương như không nghe thấy, cô bảo người con trai kia: "Chúng mình đi đi". Đến hai mươi mốt năm sau, cô còn ân hận những giây phút này. Nhưng cô rất thoả mãn về câu nói cảu mình đã như một phát đại bác bắn vào Sài. Cô không thể ngẫm nghĩ, phân tích và chờ đợi khi có một hiện tượng, dù chỉ là sự đồn đại về người yêu mình không còn chung thuỷ. Huống hồ đang lúc cô đau đớn và hy vọng. Đã mấy năm trời đau đớn và hy vọng. về sự ra đi biệt tăm của Sài. Về nghỉ hè lại bỗng nghe tin vợ Sài sắp sửa đi thăm chồng. Cả hàng tháng nay người ngoài biết vợ Sài đã có địa chỉ của anh t